Theo số liệu của cơ quan Hải Quan cho thấy, 7 tháng đầu năm, giá trị xuất khẩu cá tra của Việt Nam đạt gần 1,2 tỷ USD, tăng trưởng 19,3% so với cùng kỳ năm trước. Vì vậy, bà con ồ ạt đầu tư vào nuôi cá tra để xuất khẩu. Tuy nhiên việc không tuân theo đúng quy trình nuôi cá tra xuất khẩu theo tiêu chuẩn VietGap đã đem lại kết quả không như mong muốn.
I/ 3 rào cản trong xuất khẩu cá tra năm 2018
Trong hoạt động xuất khẩu sang hai thị trường lớn truyền thống như Mỹ và EU, cá tra của Việt Nam đã gặp nhiều khó khăn.
Theo Hiệp hội chế biến và xuất khẩu thủy sản Việt Nam ( VASEP) năm 2018, cá tra Việt Nam tiếp tục phải đối mặt với 3 rào cản lớn tại hai thị trường truyền thống với 3 rào cản lớn.
1/ Vụ kiện chống bán phá giá
Ngày 20/3/2018, Bộ Thương mại Mỹ (DOC) đã công bố kết quả cuối cùng của POR13 (từ ngày 1/8/2015-31/7/2016). Theo quyết định này, Công ty Cổ phần Gò Đàng (GODACO) là bị đơn duy nhất bắt buộc trong POR13 có mức thuế 3,87 USD/kg, các doanh nghiệp (DN) còn lại cũng bị áp dụng mức thuế này.
VASEP cho biết, đây là mức thuế suất cao nhất kể từ trước tới nay và tăng 5,61 lần so với kết quả POR12 trước đó.
Trải qua 13 kỳ xem xét hành chính trong vụ kiện CBPG thì đây là lần đầu tiên DOC yêu cầu bị đơn bắt buộc thực hiện việc thay đổi cách kê khai hồ sơ có nhiều khác biệt so với các kỳ trước. Doanh nghiệp cá tra Việt Nam đã nộp hồ sơ đúng hạn nhưng DOC đã không xem xét một cách đầy đủ dẫn đến việc áp dụng các yếu tố bất lợi có sẵn khiến cho mức thuế bị tăng cao một cách vô lý.
Trước tình hình này, VASEP và các DN xuất khẩu (XK) cá tra sang Mỹ đã tiến hành các thủ tục pháp lý cần thiết để khiếu kiện lên Tòa án Thương mại Quốc tế Mỹ (CIT) để yêu cầu DOC phải xem xét một cách kỹ lưỡng các hồ sơ, dữ liệu đầy đủ mà DN Việt Nam đã cung cấp để làm cơ sở tính toán và đưa ra mức thuế chính xác và hợp lý cho các thông tin tham gia đợt xem xét hành chính lần thứ 13 này.
2/ Truyền thông bôi nhọ tại EU
Trước tình hình xuất khẩu cá tra sang thị trường Châu Âu bị sụt giảm do truyền thông bôi nhọ ở một số nước tại Châu Âu, VASEP đã ký hợp đồng với Công ty Globally Cool thực hiện chiến dịch quảng bá cá tra tại thị trường này từ tháng 3-12/2017.
3/Rào cản Farmbill
Sau giai đoạn chuyển tiếp của chương trình thanh tra cá da trơn kết thúc, kể từ ngày 2/8/2017, FSIS đã tiến hành kiểm tra an toàn thực phẩm và bao bì tất cả các lô hàng cá tra xuất khẩu vào Mỹ tại các I-house. Ngày 23/2/2018, USDA (Bộ Nông nghiệp Mỹ) đã công bố Việt Nam hoàn tất và đạt tính tương đồng về mặt hồ sơ theo Đạo luật Thanh tra Cá da trơn của Mỹ. Sau khi chấp nhận về mặt hồ sơ, FSIS tiến hành kiểm tra thực địa (bước quan trọng và có tính quyết định để xác định tính tương đồng) để xác định doanh nghiệp nào đủ điều kiện tiếp tục xuất khẩu cá tra sang Mỹ.
Song song với việc cố gắng để được công nhận tương đương, hiện nay Việt Nam đã nộp đơn khiếu kiện chương trình thanh tra cá da trơn và yêu cầu tham vấn tới WTO.
II/ Khó khăn trong quy trình nuôi cá tra theo tiêu chuẩn VietGap
Trong thị trường kinh tế hiện nay, việc áp dụng quy trình nuôi cá tra theo tiêu chuẩn VietGap đang gặp nhiều khó khăn.
1/ Cá tra trước “vòng vây” tiêu chuẩn
Hiện nay, cá tra bị không dưới 9 bộ tiêu chuẩn nuôi trồng thủy sản bền vững quốc tế “bao vây”. C ác tiêu chuẩn này đều dựa trên cơ sở là tiêu chuẩn nuôi trồng thủy sản bền vững của Tổ chức Nông – Lương Liên Hợp quốc (FAO) với bốn khía cạnh cơ bản là an toàn thực phẩm, bảo vệ môi trường, bảo đảm sức khỏe động vật và an sinh xã hội.
Trong khi đó, người tiêu dùng ở các thị trường trên thế giới yêu cầu sản phẩm thủy sản phải đạt được các chứng nhận khác nhau( như người tiêu dùng Tây Âu yêu cầu sản phẩm phải dán nhãn GlobalGAP; còn thị trường Mỹ yêu cầu chứng nhận GAA; và hiện nay, các nước Hà Lan, Đức, Thụy Sỹ đang đặc biệt quan tâm đến tiêu chuẩn dán nhãn ASC…)
Những yêu cầu khác nhau này không chỉ gây bối rối cho người nuôi cá tra mà ngay cả cơ quan quản lý cũng khó khăn trong việc định hướng cho người nuôi cá tra áp dụng tiêu chuẩn nào hiệu quả nhất. Để gỡ khó, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn ban hành bộ tiêu chuẩn VietGAP cho cá tra, trong đó có đầy đủ những yêu cầu nuôi thủy sản bền vững của các bộ tiêu chuẩn quốc tế khác. Mục đích của VietGAP là giúp nâng cao chuỗi giá trị cho cá tra từ trang trại đến bàn ăn, góp phần để cá tra phát triển ổn định và bền vững, đảm bảo lợi ích người nuôi cũng như nhà chế biến xuất khẩu.
2/Không dễ áp dụng đại trà
Nhằm giúp ngành cá tra xuất khẩu ổn định Chính phủ đã ban hành Chính phủ đã ban hành Nghị định 36/2014/NĐ-CP về nuôi, chế biến và xuất khẩu sản phẩm cá tra, trong đó quy định các cơ sở nuôi cá tra thương phẩm phải áp dụng và được chứng nhận thực hành nuôi trồng thủy sản tốt theo VietGAP hoặc chứng chỉ quốc tế phù hợp quy định của pháp luật Việt Nam trước ngày 31/12/2015. Tuy nhiên, để các hộ đáp ứng được 104 tiêu chí của VietGAP không hề đơn giản. Những điểm bất cập:
– Đầu tiên, các hộ phải ghi chép chi tiết, lưu giữ hồ sơ về quá trình cải tạo ao, sử dụng thức ăn, con giống, hóa chất, kháng sinh, xử lý chất thải… theo biểu mẫu. Tuy nhiên, do trình độ học vấn còn hạn chế, chưa kể nhân lực ngày càng khan hiếm nên việc ghi chép dù đơn giản cũng trở nên khó khăn.
– Đối với cơ sở hạ tầng vùng nuôi thì cơ sở nuôi cá tra phải có hệ thống cấp thoát nước riêng biệt, ao lắng, ao nuôi không rò rỉ, hệ thống xử lý chất thải đầy đủ, tuy nhiên đây là những hạng mục mà hầu như không hộ nuôi cá tra nào đạt được.
– Với tiêu chí hồ sơ giống, hiện nay nguồn cá tra giống được sản xuất từ cá tra bố mẹ được xác nhận còn rất khan hiếm nên buộc các hộ nuôi cá tra phải mua giống trực tiếp từ các hộ ương cá tra giống, hay phải mua giống qua nhiều khâu trung gian để có cá giống thả nuôi. Do đó, việc chứng minh cá tra giống được sản xuất từ cá tra bố mẹ chất lượng gặp không ít khó khăn. Ngoài ra, cơ sở nuôi cá tra giống cũng không có giấy tờ xác minh chất lượng của những giống cá tra này.
– Đối với hệ thống xử lý chất thải, hầu như tất cả hộ nuôi cá tra đều không có ao xử lý nước thải, không có ao chứa bùn để xử lý chất thải ao nuôi cá tra theo yêu cầu của VietGAP. Hiện nay, tất cả các hộ nuôi cá tra đều thực hiện thay nước hàng ngày, trong khi quy trình xử lý nước sinh học trong ao lắng với cá, rong, cỏ… cần thời gian ít nhất 7 ngày thì nước thải mới đạt chất lượng theo quy định trước khi đưa ra môi trường. Đồng thời, việc lấy mẫu nước thải để kiểm tra chất lượng nước trước khi thải ra môi trường cần nguồn kinh phí rất lớn, làm tăng đáng kể chi phí cho các hộ nuôi.
– Điều khó nhất vẫn là nhiều hộ nuôi cá tra chưa mặn mà với việc áp dụng nuôi theo quy trình VietGAP, bởi cho đến nay, sản phẩm cá tra VietGAP vẫn chưa được thị trường thế giới công nhận và giá bán cá tra VietGAP không khác cá tra nuôi theo kiểu truyền thống, trong khi chi phí nuôi cá tra theo VietGAP cao hơn.
III/ Giải pháp tháo gỡ khó khăn
Kết nối VietGAP với thị trường
VietGAP mang lại lợi ích lâu dài, góp phần nâng cao chất lượng, xây dựng thương hiệu cá tra Việt Nam, tiến tới nâng cao giá trị toàn chuỗi. Tuy nhiên, về góc độ các hộ nuôi cá tra, khi đầu tư thêm không ít công sức, tiền của vào cùng một diện tích nuôi cá tra nhưng trước mắt sản lượng giảm (do phải dành một diện tích ao nuôi làm ao xử lý nước thải), giá bán không cao hơn so với sản phẩm sản xuất truyền thống thì rõ ràng không đủ động lực để họ nhiệt tình với VietGAP.
Trước thực trạng nêu trên, để VietGAP được người nuôi cá tra đồng tình ủng hộ thì các bộ, ngành cần có giải pháp giải quyết đầu ra ổn định, khẳng định một thương hiệu riêng để phân biệt với sản phẩm cá tra sản xuất theo kiểu truyền thống với giá cả hợp lý hơn. Giá trị của cá tra VietGAP phải được nhìn nhận và khẳng định từ các nhà máy chế biến cá tra xuất khẩu, từ cả thị trường trong nước và thế giới.
Do đó, cần phải nhanh chóng xúc tiến khâu quảng bá, đàm phán và thừa nhận của quốc tế đối với VietGAP để giúp giá trị cá tra VietGAP tăng lên, từ đó người dân mới toàn tâm toàn ý vào VietGAP bên cạnh những tiêu chuẩn khác. Ngoài ra, nhà nước cần có chính sách khuyến khích, hỗ trợ các hộ nuôi cá tra VietGAP và các nhà máy chế biến xuất khẩu liên kết với nhau theo quy trình khép kín từ sản xuất đến tiêu thụ thì các mô hình nuôi cá tra VietGAP mới tồn tại bền vững.
Để VietGAP được người nuôi cá tra đồng tình ủng hộ thì các bộ, ngành cần có giải pháp giải quyết đầu ra ổn định, khẳng định một thương hiệu riêng để phân biệt với sản phẩm cá tra sản xuất theo kiểu truyền thống với giá cả hợp lý hơn. Giá trị của cá tra VietGAP phải được nhìn nhận và khẳng định từ các nhà máy chế biến cá tra xuất khẩu, từ cả thị trường trong nước và thế giới.
Có thể những thắc mắc của bạn sẽ không được giải đáp hết qua bài viết này, để tìm hiểu kỹ hơn hãy đến với chúng tôi_Công ty Tư vấn giải pháp Trí Việt
Liên hệ: tại đây